Chiết khấu giấy tờ có giá (CKGTCG) của tổ chức tín dụng là gì? Có mấy phương thức thực hiện nghĩa vụ chết khấu? Đặc điểm của hoạt động CKGTCG là gì?

Khái niệm 

Căn cứ theo Khoản 19 Điều 4 Luật Các tổ chức tín dụng 2010:

“19. Chiết khấu là việc mua có kỳ hạn hoặc mua có bảo lưu quyền truy đòi các công cụ chuyển nhượng; giấy tờ có giá khác của người thụ hưởng trước khi đến hạn thanh toán.”

Căn cứ theo quy định tại khoản 4 Điều 2 Thông tư 01/2012/TT-NHNN:

“Chiết khấu giấy tờ có giá là nghiệp vụ Ngân hàng Nhà nước mua ngắn hạn các giấy tờ có giá còn thời hạn thanh toán của các tổ chức tín dụng; chi nhánh ngân hàng nước ngoài trước khi đến hạn thanh toán (sau đây gọi tắt là chiết khấu).”

Tóm lại, có thể nhận thấy rằng về bản chất; hoạt động CKGTCG của tổ chức tín dụng vừa là quan hệ tín dụng (bản chất kinh tế), vừa là quan hệ hợp đồng mua bán giấy tờ có giá (bản chất pháp lí).

Phương thức thực hiện nghĩa vụ chiết khấu

Căn cứ theo Điều 4 Thông tư 01/2012/TT-NHNN:

“Điều 4. Phương thức thực hiện nghiệp vụ chiết khấu

1.Phương thức giao dịch trực tiếp: Các tổ chức tín dụng; chi nhánh ngân hàng nước ngoài giao dịch trực tiếp với Ngân hàng Nhà nước.

2.Phương thức giao dịch gián tiếp: Các tổ chức tín dụng; chi nhánh ngân hàng nước ngoài giao dịch thông qua hệ thống mạng giao dịch nghiệp vụ thị trường tiền tệ theo hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước.”

Theo quy định trên, nghiệp vụ CKGTCG của Ngân hàng Nhà nước đối với các tổ chức tín dụng được thực hiện theo phương thức giao dịch trực tiếp và giao dịch gián tiếp.

Đặc điểm của hoạt động chiết khấu giấy tờ có giá.

Với tư cách là nghiệp vụ tín dụng, đồng thời là giao dịch mua bán giấy tờ có giá; hoạt động CKGTCG khác của tổ chức tín dụng đối với khách hàng có những đặc điểm cơ bản sau đây:

Về chủ thể:

Bên cung ứng tín dụng là tổ chức tín dụng nhận chiết khấu và bên thụ hưởng tín dụng là khách hàng xin chiết khấu nhưng nghĩa vụ hoàn trả tiền vay lại được chuyển giao cho người thứ ba  thực hiện.

Về hình thức pháp lý:

Tuy cũng là một nghiệp vụ tín dụng nhưng hoạt động CKGTCG khác của tổ chức tín dụng đối với khách hàng được thực hiện thông qua hình thức pháp lí là hợp đồng CKGTCG, chứ không phải là hợp đồng tín dụng (giống như trong nghiệp vụ cho vay). Hợp đồng này không giống với hợp đồng tín dụng trong nghiệp vụ cho vay thông thường mà thực chất nó giống như hợp đồng mua bán giấy tờ có giá, nghĩa là có bên bán và bên mua cùng với thỏa thuận chuyển giao quyền sở hữu giấy tờ có giá từ người bán sang cho người mua.

Về quy trình nghiệp vụ:

Nghiệp vụ chiết khấu có sự khác biệt với quan hệ chuyển nhượng các khoản cho vay nghề nghiệp ở chỗ, giao dịch chiết khấu đòi hỏi khách hàng phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu các chứng từ có giá cho ngân hàng theo thể thức chặt chẽ do luật định, trong khi đó giao dịch chuyển nhượng các khoản cho vay nghề nghiệp không bắt buộc khách hàng làm thủ tục này mà chỉ cần lập bảng kê các khoản nợ mà khách hàng có ý định chuyển nhượng cho ngân hàng và chuyển giao bảng kê khai đó cho ngân hàng là đủ. Còn ngân hàng sẽ có trách nhiệm trả tiền cho người chủ nợ mới là ngân hàng.

Có thể nhận thấy trình tự này là sự kết hợp giữa kỹ thuật nghiệp vụ tín dụng (được thể hiện ở thủ tục thẩm định hồ sơ chiết khấu của khách hàng) với kỹ thuật pháp lí trong hợp đồng mua bán giấy tờ có giá (được thể hiện ở thủ tục chuyển giao quyền sở hữu giấy tờ có giá cho người mua và thanh toán tiền mua giấy tờ có giá cho người bán). Chính sự kết hợp này đã tạo ra nét đặc trưng cho hoạt động CKGTCG; so với các loại hình hoạt động tín dụng khác của tổ chức tín dụng như hoạt động cho vay; hoạt động bảo lãnh ngân hàng và hoạt động cho thuê tài chính.

Về đối tượng chiết khấu giấy tờ có giá:

Đối tượng chiết khấu ở đây chính là các giấy tờ có giá (GTCG). Điều 6 Thông tư 01/2012/TT-NHNN quy định tiêu chuẩn GTCG được chiết khấu tại Ngân hàng Nhà nước như sau:

“1. Được phát hành bằng đồng Việt Nam (VND);

2. Được phép chuyển nhượng;

3. Thuộc sở hữu hợp pháp của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đề nghị chiết khấu;

4. Không phải là GTCG do tổ chức tín dụng; chi nhánh ngân hàng nước ngoài đề nghị chiết khấu phát hành;

5. Thời hạn còn lại tối đa của giấy tờ có giá là 91 ngày đối với trường hợp chiết khấu toàn bộ thời hạn còn lại của GTCG;

6. Thời hạn còn lại của GTCG phải dài hơn thời hạn Ngân hàng Nhà nước chiết khấu đối với trường hợp chiết khấu có kỳ hạn.

7. Danh mục giấy tờ có giá được chiết khấu do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định trong từng thời kỳ.”

Chiết khấu giấy tờ có giá luôn có bản chất là một nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn. Tính chất ngắn hạn của nghiệp vụ tín dụng này thể hiện ở chỗ; khách hàng chỉ có thể đem chiết khấu ở ngân hàng những GTCG còn thời hạn thanh toán dưới một năm

Về giá bán của giấy tờ có giá

Chiết khấu là một dạng cho vay trực tiếp đối với người sở hữu GTCG nhưng lại là hình thức cho vay gián tiếp đối với người mắc nợ theo GTCG; giá bán của GTCG bao giờ cũng thấp hơn giá trị của GTCG được mua bán.

Về luật áp dụng:

Do hoạt động chiết khấu vừa là nghiệp vụ mua bán GTCG; đồng thời còn là nghiệp vụ tín dụng của tổ chức tín dụng nên hoạt động này ngoài việc tuân thủ các quy tắc chung về hợp đồng mua bán GTCG còn phải chịu sự điều chỉnh của các quy định pháp luật về hoạt động ngân hàng (Luật Các tổ chức tín dụng 2010 (sửa đổi,bổ sung 2017), Thông tư 12/2021/TT-NHNN, …)

Trên đây là nội dung bài viết Chiết khấu giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng . Nếu bạn có bất kì thắc mắc gì về các vấn đề pháp lý, hãy liên hệ  lawkey.vn để được tư vấn hỗ trợ bạn nhé.